Bà Đa cúi người bước qua bậu cửa nom như không để đụng phải cái cửa vốn đã thấp lè tè. Tuy nhiên, cái bóng dáng thấp người với việc thời gian làm cho tuổi già ập đến tự khi nào khiến lưng bà đau không đi thẳng người được. Mà dẫu không thế, dẫu bà có đứng thẳng người cũng vốn không thể đụng phải bậu trên cửa, có chăng chỉ là bà không muốn thừa nhận mình đã già rồi. Không phải bà luyến tiếc thanh xuân mà vì bà muốn người đàn ông trước mặt kia không phải lo lắng cho bà nữa mà đưa ra quyết định trọng đại của đời mình. Người đàn ông độ chừng ba mươi tuổi vẫn dõi theo từng bước đi của bà, hai tay đưa hờ ra trong không khí nom nếu để bà chực ngã thì còn kịp đỡ. Đợi đến khi bà ngồi xuống tấm phản ở gian bên trái nhà, nhẹ nhàng rót miếng nước vối trong chiếc bình đất ra uống, người đó mới cất tiếng:
– Má ở một mình con thực không yên tâm.
Bà sẵn giọng:
– Đừng lấy tao ra làm lí do cho việc mày không tha thứ.
Người đàn ông im lặng và tất cả lại chìm vào tĩnh lặng, chỉ có mùi của cỏ lẩn quất đâu đây và tiếng của vài con nghé đạp chuồng đương đòi ăn là thanh âm duy nhất phá vỡ đi im lặng.
Bà Đa từng có một đời chồng, kết hôn từ khi còn rất trẻ nhưng khi hai người chuẩn bị đón con đầu lòng thì bà bị sảy thai. Vợ chồng bà khi ấy dường như không đủ mạnh mẽ để chống lại được dị nghị của người đời và cả nỗi đau của bản thân nên chia tay nhau trong đau khổ. Hai mươi lăm tuổi bà trở thành phụ nữ nửa chừng xuân, xa phố về lại quê, muốn sống cuộc đời mình yên ổn và bình lặng. Bà gặp lại mối tình đầu, ông Keo, nhưng khi ấy ông đã có vợ con, những rung cảm thời xa xưa dĩ nhiên không đủ sức để vượt qua rào cản gia đình nhưng tất cả cũng là khởi đầu.
Con trai ông Keo tên Mai, ngày Mai lên bảy, mẹ nó vì cám cảnh nghèo mà đòi lên phố bỏ quê kiếm kế sinh nhai. Ngày bà đi với nhiều lời hứa hẹn nhưng ông Keo biết bà sẽ không bao giờ quay lại, chỉ có thằng Mai vẫn luôn tin tưởng mẹ nó và cũng ngờ vực phải chăng ông Keo đã làm gì có lỗi. Trẻ con thường tin người, tin vào những lời nói mà không đủ nhạy cảm để có thể cảm thông và thấu hiểu trước những hành động mộc mạc của người đàn ông ấy. Nhà bà Đa cô độc nơi cuối làng vì ba mẹ đã mất cả, lại ở gần nhà ông Keo nên hai người cứ hay giúp đỡ lẫn nhau, cứ thế tự sinh tình, dần dà tuy không dọn về ở chung nhưng cứ có cảm giác như thuở mới yêu nhau. Người trong làng vốn không dị nghị mối quan hệ ấy, bởi lẽ hầu như ai cũng biết, non rất nhiều năm về trước, hai người vốn là tình đầu của nhau, yêu thương nhau và cũng ước định. Người lớn trong làng ai cũng ưng vì họ là những người trẻ lương thiện và chân thành, chỉ chờ cái đám cưới nhưng rồi số phận thay đổi. Vì vướng nợ, bà Đa lên phố lấy chồng, hai năm sau đó ông cũng cưới…Ai cũng hiểu việc họ chia tay là vì món nợ của gia đình bà Đa, hơn nữa, bây giờ dường như hai người cũng đã không còn vướng bận chuyện người kia, lại thêm một lần bên nhau cũng không có gì làm lạ.
Thế nhưng, bây giờ đã có Mai, mọi thứ đều rất khác. Trong mắt Mai, bà Đa là người khiến mẹ mình bỏ đi, dù thực ra sau khi mẹ Mai đi mấy năm thì bà Đa và ông Keo mới thực sự quan tâm và yêu thương nhau lại. Mối tình hun đúc những tưởng rồi sẽ lại có một đám cưới hạnh phúc thay thế cho suốt những năm tháng thanh xuân hai người đi những con đường lệch nhau thì ngay khi ông Keo nói chuyện với con trai về việc chuẩn bị đám cưới thì Mai đã gạt phắt, đứng dậy chỉ thẳng vào bà:
– Nếu ba muốn cưới bà ấy thì ba từ mặt con đi, con có chết cũng không để người đàn bà nào khác bước chân vào nhà này trừ má.
Hạnh phúc tưởng đến nhưng rồi lại lở dở, bà Đa cũng nhất quyết không bước chân vào nhà ông khi chưa được sự ủng hộ từ con ông. Thế nhưng do dự một lần đâu biết được sẽ mất nhau cả một đời, hai năm sau đó, khi bà Đa vừa bước qua tuổi ba hai, ông Keo trong một lần đi làm xa đã bị tai nạn không may qua đời. Ngày làm đám tang ông, mẹ Mai cũng không về dù đã được báo tin, Mai khi ấy vẫn còn quá nhỏ, mình bà Đa đứng ra lo tang sự cứ như phận vợ trong gia đình. Bà đội vành khăn trắng như để tang cho cả mối tình dang dở của mình và lần đầu tiên lúc ấy Mai hiểu được dường như mẹ mình và nguời phụ nữ trước mặt cách nhau rất xa, ở một đoạn tình nghĩa dành cho ba.
Sau khi ông mất, bà dọn về nhà ông ở đặng lo nhang khói cho ông và cũng là để lo cho Mai, như lúc sinh thời ông hay cậy nhờ bà. Chỉ tiếc là khi ấy ông nói cả hai người chung tay nuôi nấng Mai thành người còn giờ chỉ có bà. Mai không quá cương quyết đuổi bà ra khỏi nhà vì nó hiểu vị thế của nó nhưng nó cũng không quá thân thiết với bà. Hiểu được dường như Mai vẫn ghét mình, bằng lời nói cứng rắn bà cũng nói rõ:
– Cứ xem tao như mẹ kế của bây, tao có trách nhiệm nuôi bây và đó là trách nhiệm của tao. Không mượn bây phải thương lại.
Bà vốn là một người phụ nữ mạnh mẽ, kể từ khi ông mất bà dường như đứng lên gánh gồng mọi thứ, làm đủ mọi việc để không chỉ nuôi sống bản thân mình mà còn nuôi Mai. Bà tự xem mình như người vợ của ông, lo toan quán xuyến hết mọi việc trong nhà và cũng hi sinh những năm tháng còn lại của thanh xuân để nuôi đứa con riêng của chồng. Căn nhà nhỏ vắng bóng người lúc đầu chỉ là những thanh âm im lặng của một mối quan hệ dường như là nghĩa vụ bắt đầu có nhiều tiếng cười hơn vì gần gũi và thân thuộc. Dẫu bà không là một nguời mẹ dịu dàng đúng nghĩa nhưng bà vẫn luôn quan tâm và lo lắng cho Mai từng chút. Bà cũng là một người phụ nữ hiểu chuyện, đôi khi thấy Mai nhớ mẹ, tủi thân vì những mối quan hệ ruột thịt nên bà cũng quyết định dành dụm đặng đưa Mai lên phố thăm mẹ.
– Mai bây nghỉ đúng không, coi vào thu xếp ít bộ quần áo tao với bây mai lên phố.
– Nhưng mà mai mình con ra chợ, còn lấy rau ông Đen về cho kịp bán…
Nhưng bà Đa chỉ phẩy tay. Mai đột nhiên thấy rưng rưng nước mắt. Nó hiểu bà lo và thương cho nó đến độ gạt bỏ hết công việc thường ngày chỉ để đưa nó lên phố tìm mẹ, chứ nó đi một mình bà cũng không yên tâm. Một chặng đường xa suốt nửa ngày, lên đúng địa chỉ mà ngày đó mẹ Mai viết vội, trong một căn nhà nom khang trang trên phố, bóng hình người mẹ cuả nó đang cười nói với một người đàn ông xa lạ, trên tay còn bế một đứa nhỏ nhỏ xíu, Mai ước chừng hiểu được tất cả. Hai bóng nguời câm lặng đứng bên ngoài một căn nhà đang rộn rã tiếng cười ở bên trong. Mai chợt hiểu ra lí do vì sao đằng ấy mẹ nó rời xa nó, cũng không về thắp cho ba một nén nhang, thậm chí cũng không hề đoái hoài đến đứa con trai ở quê sau khi mất cha sẽ sống như thế nào. Nó đưa tay kéo lấy tà áo bà Đa:
– Về thôi má ơi.
Đó cũng là lần đầu tiên nó gọi bà Đa là má. Nhưng dường như đôi khi như thế lại giúp con người ta đưa ra những quyết định đúng đắn, kể từ bấy nó thực sự coi bà Đa như một người mẹ đúng nghĩa, và bắt đầu báo hiếu dù là quá muộn. Nó vẫn thường phụ giúp bà hái rau rồi gánh ra chợ bán những khi không đi học, cũng chia sẻ những công việc ngày thường mà trước kia vì bất mãn với người phụ nữ lạ trong nhà mà nó trốn tránh. Sáu năm sau đó, khi nó chuẩn bị bước vào đại học, có người đàn ông trong làng đến ngỏ ý hỏi cưới bà Đa. Dường như ai cũng thương cho người phụ nữ ấy, chịu thương chịu khó và ai cũng hiểu sự hi sinh của bà nên dù bà đã lỡ lần đò vẫn có người mong muốn được kết duyên cùng bà. Khi ấy, Mai cũng suy nghĩ rất nhiều và nó cũng muốn bà có được hạnh phúc riêng sau từng ấy năm gánh gồng nuôi nó. Nhưng với bà, lúc này Mai đang ở giai đoạn quan trọng cuả cuộc đời, sắp sửa bước vào kì thi đại học, bà không muốn vì chuyện của bà làm nó phân tâm. Hơn ai hết bà nghĩ nó là người thấu hiểu nhiều sự mất mát, nếu cả bà cũng làm nó cảm giác sẽ bỏ nó mà đi thì nó sẽ như thế nào, nó không còn ai ngoài bà cả.
– Tao là vợ của ba bây mà sao bây cứ đuổi tao đi vậy cà?
– Nhưng chưa cưới mà, má có quyền đi tìm hạnh phúc riêng chớ.
Một tình huống nhưng hai hoàn cảnh khác nhau, ở khía cạnh của Mai nó chỉ mong muốn bà hạnh phúc không vướng bận gì nhưng lời nó nói nếu đứng ở vị trí của bà thì là một nỗi đau. Nó làm bà nhận ra thực tại bà và ông đã không có một kết cục hạnh phúc. Như cảm thấy có lỗi vì lời nói bộc trực của mình, Mai đầy hối lỗi nhưng đổi lại chỉ là cái ôm rất nhẹ nhàng từ bà:
– Má con với nhau ở cạnh nhau cũng gần cả chục năm rồi sao tao không hiểu bây nghĩ gì. Nhưng má già rồi, má chỉ muốn là mẹ kế của bây thôi, không muốn đi vào gia đình khác nữa.
Nó im lặng nhưng nước mắt rơi. Sau đó nó thi đậu đại học và lên phố học, chỉ còn mình bà dưới quê nhìn dòng sông trôi trước mắt như thời gian của mình. Nó ra trường và mau chóng kiếm được một công việc tốt, sau đó nó lại xin thuyên chuyển công tác về quê để tiện bề chăm sóc cho bà. Ngày nó chuyển công tác bà rầy nó dữ lắm, vì bà nghĩ ở phố sẽ có cơ hội việc làm hơn nhưng nó cứ phải giải thích về sự đa dạng của các công việc online hiện giờ và hơn nữa nó muốn ở cạnh để tiện bề chăm sóc cho bà. Rồi năm ấy đại dịch tới, kinh tế đình trọng, nó cũng mất việc, mọi thứ lại quay về điểm xuất phát nhưng nó không cảm thấy lo sợ vì ít ra nó được ở cạnh bà, mẹ con sum họp ở cạnh nhau, lo lắng cho nhau và mọi thứ rồi sẽ được tạo dựng lại như ngày xưa khi bà hai bàn tay trắng vẫn nhất quyết không buông rơi nó.
Mọi thứ qua đi, nó ôm cv đi khắp nơi xin việc nhưng khó khăn thì lúc ấy mẹ ruột nó quay về. Bà ngỏ ý muốn đưa nó lên phố, sẽ nhờ chồng bà xin cho nó một công việc tốt vì ông là chủ một công ty và vẫn hoạt động tốt sau mùa dịch. Lúc này, nó phải đứng ra lựa chọn giữa mẹ ruột và “mẹ kế” vì mẹ ruột nó cũng muốn nó hoàn toàn cắt đứt mối quan hệ với bà. Sau đó bà nghiễm nhiên quay lại phố với thời hạn một tuần cho quyết định của Mai, dường như bà nghĩ đồng tiền có thể mua được tình cảm như cái cách năm xưa bà bỏ đi ba của Mai để có được cuộc sống sung túc của hiện tại. Ngược lại, ngay khi nghe sự ngỏ ý của mẹ Mai, bà Đa cũng dứt khoát ngay:
– Bây lên phố đi, kiếm công việc tốt, tao còn khỏe mạnh ở quê sống một mình cũng được. Không hiểu nghĩ cái chi mà cứ do dự.
Ba mươi tuổi, Mai dường như cảm thấy mình đứng giữa quyết định mà cũng như năm xưa bà Đa từng lựa chọn. Ánh trăng lên và neo lại nơi lũy tre đầu làng, mâm cơm đạm bạc được dọn lên. Bà Đa đương ăn lại lần tay gỡ miếng cá ra khỏi xương gắp bỏ cho Mai:
– Ăn con cá đây là nhớ phải lừa xương ra trước, nhỏ cứ mỗi lần ăn cá là hóc. Đến khổ.
Mai cảm thấy nước mắt nuốt ngược vào tim. Ngay sau đó nó gọi cảm ơn và từ chối mẹ nó, cũng cúp điện thoại vội trước những lời trách móc phía đầu dây bên kia vẫn đang vang dội. Bà Đa những ngày sau đó tìm đủ mọi cách để khuyên Mai, thậm chí còn đuổi nó đi chỉ vì bà không muốn nó vướng bận bà mà không có cơ hội tốt. Có lúc giận quá bà còn kẻ cả:
– Tao chỉ là mẹ kế của bây, sao bây cứ phải tốt vơí mẹ kế làm gì.
Nhưng lúc này Mai chỉ phì cười, lời bà nói không làm Mai tổn thương vì nó hiểu từ trước tới giờ bà vẫn luôn nhận mình là “mẹ kế” vì vốn trước giờ hình ảnh mẹ kế thương không tốt, nghe như không có ràng buộc gì với con chồng. Thì đứa con chồng kia không nên vướng bận. Sau đó, dường như đuổi đi không được, ở chung một nhà mà cứ khó chịu cũng không xong bà đành phó mặc. Khi mọi thứ dần ổn định trở lại, Mai cũng xin được một công việc ở một công ty trong xã, guồng quay lại tiếp tục bên căn nhà nhỏ.
Hai năm sau Mai lấy vợ. Hơn năm nữa Mai sinh cháu, lúc này công việc ổn định, Mai cũng đã mua một căn nhà lớn hơn và rước bà về ở cùng. Ngày con Mai bắt đầu tập nói, Mai ôm bé, lại kéo bà lại, nhất quyết tập cho tiếng vỡ lòng của đứa trẻ là “ Bà nội”. Nước mắt bà rưng rưng đột nhiên rơi xuống lúc nào không hay.
“Bà nội”
“Bà nội kế”
“ Không, chỉ là bà nội thôi”.